Bị nàng hỏi vậy, ta thoáng lúng túng, chỉ có thể đáp:
“Trước đây ta từng gặp phu nhân. Khi đó người ăn mặc xa hoa lộng lẫy, sao bây giờ lại ra nông nỗi này? Hài tử khóc mãi không ngừng, có phải đói rồi không?”
Nàng càng khóc dữ hơn.
Ta đưa nàng vào trà lâu, chọn một gian phòng riêng, gọi trà và điểm tâm.
Nàng vừa cho con bú, vừa đói đến mức vội vã ăn như nuốt chửng.
Ta vẫn còn nhớ lần trước gặp nàng, dù trong mắt có chút sầu lo, nhưng vẫn là một phu nhân đoan trang nhã nhặn.
Chẳng ngờ giờ đây lại tiều tụy đến mức này.
Ăn no xong, nàng ta mới nhẹ giọng kể về những gì đã xảy ra với mình.
Nàng xuất thân thấp kém, vốn chỉ là một nha hoàn hầu hạ bên cạnh trượng phu.
Nhà chồng ban đầu không chấp nhận hôn sự này, nhưng trượng phu của nàng lấy cái c.h.ế.t ra ép buộc, khiến phụ mẫu hắn đành miễn cưỡng đồng ý.
Sau khi thành thân, tuy hai người gặp nhiều khó khăn, nhưng vẫn sống hạnh phúc bên nhau, tình cảm trước sau như một.
Nhưng bất hạnh thay, vào mùa đông năm ngoái, trượng phu nàng nhiễm phong hàn, chẳng bao lâu thì qua đời.
Mẹ chồng nàng vô cùng tức giận, cho rằng chính nàng đã khắc c.h.ế.t con trai bà.
Vì quá đau lòng, nàng sinh non, hài tử chào đời sớm hơn dự kiến.
Lại thêm việc nàng sinh con gái, nên cả hai mẹ con đều bị coi là điềm xấu, bị đuổi khỏi nhà.
Nghe đến đây, mắt ta đẫm lệ.
Ta quá hiểu nỗi đau của nàng.
Trên đời này, có biết bao nữ nhân khổ sở như nàng?
Trước đây, khi còn ở nhà mẹ đẻ, ta cũng sống trong sợ hãi, nhẹ thì bị mắng chửi, nặng thì bị đánh đập.
Gả đi rồi lại càng thê thảm hơn, ai cũng có thể mắng, ai cũng có thể đánh.
Chỉ xem ngươi gặp phải là người hay là súc sinh mà thôi.
Nàng lau nước mắt, nhẹ giọng nói với ta:
“Công tử thật nhân hậu. Ngài và ta vốn chẳng quen biết, vậy mà ngài không chỉ mời ta một bữa no, cho ta uống trà nóng, mà còn quan tâm đến cảnh ngộ của ta. Thu Nương thật sự cảm kích vô cùng.”