Phù Đổng Thiên Vương

Chương 1: Thiên tai nhân hoạ



Hơn bốn ngàn năm trước, người Việt cổ sinh sống trên các đồng bằng gần các lưu vực sông, đông giáp biển, tây đến Ba Thục, nam từ Hồ Tôn, bắc đến hồ Động Đình. Tuy mang chung một dòng máu, nhưng luôn có mâu thuẫn xảy ra bên trong bộ lạc lẫn các chiềng, chạ. Càng phát triển, càng giàu có, sự mâu thuẫn càng dâng cao. Từ việc các thủ lĩnh bộ lạc tranh chấp lãnh thổ canh tác, đến chuyện phân chia công việc giữa chính các thành viên bên trong bộ lạc. Những trận đánh nhau lớn nhỏ xảy ra liên miên không dứt.
Cho đến một ngày, Kinh Dương Vương – Lộc Tục thống nhất các bộ tộc người Việt, thành lập chính quyền đầu tiên của người Việt cổ, nước Văn Lang, đóng đô ở Bạch Hạc, Phong Châu. Ông chia các bộ lạc phân bố đều khắp lãnh thổ, dạy cho họ cách sinh tồn. Người sống trên núi thì chủ yếu chăn nuôi dê ngựa, kẻ ở đồng bằng tập trung trồng trọt lúa nước, dân vùng giáp biển thông thạo việc đánh bắt thuỷ hải sản. Tuy khác nhau về địa lý, nhưng người Việt cổ vẫn giữ những điểm chung như văn hoá, ngôn ngữ, lịch… Dưới Vua Hùng là các Lạc hầu, Lạc tướng trợ giúp cai quản đất nước. Vua Hùng còn tuyển chọn những thanh niên khoẻ mạnh nhất từ các bộ lạc, thành lập quân đội sơ khai của đất nước. Cũng từ đó, người Việt đã có sức kháng cự đối với sự xâm chiếm lãnh thổ của người phương bắc.
Các đời Vua Hùng truyền thừa qua các thị tộc và kế vị bằng phương thức cha truyền con nối. Con trai gọi là Quan Lang, con gái gọi là Mị Nương. Mỗi một thị tộc đều có niên hiệu cho riêng mình, người đời sau gọi đó là mười tám đời Vua Hùng.
***
Niên đại Vua Hùng thứ sáu – Hùng Huy Vương.
Trên cánh đồng hơi cằn cỗi, có ba người đang đứng. Hai người phía sau, một thì cao lớn uy mãnh, màu da đen xạm, độ tuổi tầm bốn mươi. Người còn lại hơn ba mươi, dáng người thấp bé hơn, nhưng thần thái toát lên sự tinh minh chín chắn. Phía trước bọn họ là một ông lão tóc bạc trắng búi cao, thân chỉ cộc một chiếc khố làm từ đay. Ông lão này gương mặt uy nghi, ánh mắt sắc bén như đao, nhưng sâu bên trong là nét lo âu phiền muộn. Ông nhẹ than thở:
- Hạn hán đến nay đã gần hai năm, mưa rơi không đủ thấm đất, nước sông dần thấy đáy. Cứ tiếp tục như vậy con dân của ta làm sao có thể tiếp tục tồn tại? Các đời tổ tiên ơi, con phải làm gì để mang người Việt thoát khỏi cơn lầm than đây? Dân đói thì nước yếu, đám người phương bắc chẳng thể nào bỏ qua cơ hội xâm lấn bờ cõi nước ta.
Đứng suy tính hồi lâu, ông lão nói cho hai người đằng sau:
- Trở về! Thông báo cho tất cả các Lạc hầu, Lạc tướng, ba ngày sau tập hợp tại đền Trung! Ta có lệnh cần ban bố. – Âm thanh tuy không lớn, nhưng lại mang khí thế không thể phản kháng của một người ở vị trí tối cao lâu năm.
Hai người phía sau đồng thanh đáp:
- Vâng, thưa Vua!
Ông lão kia chính là Vua Hùng đương nhiệm, Hùng Huy Vương. Hai người còn lại là Lạc hầu, Lạc tướng thân cận nhất của ông – Tào và Vì Ba.
***
Đền Trung là một kiến trúc kiểu nhà sàn, tuy nhiên lại có quy mô lớn hơn rất nhiều so với nhà sàn thông thường. Đây là nơi các đời Vua Hùng nghỉ ngơi, cũng là nơi nghị sự của vua với các Lạc hầu, Lạc Tướng. Quy mô của đền đủ để hơn trăm người vào trong mà vẫn không có cảm giác chật chội. Gian chính được lót bằng thổ cẩm, trang trí các đường nét đặc trưng của người Việt, đơn giản nhưng tinh tế. Tường trái treo một tấm da hổ và một tấm da gấu. Từ kích thước da có thể thấy khi con sống hai con mãnh thú này lúc đứng thẳng cao gấp đôi một người đàn ông trưởng thành. Tường bên phải là đầu lâu của voi và tê giác, cả hai đều giữ lại ngà và sừng. Chỉ cần nhìn vào kích thước của hai thứ này đã đủ khiến người ta thấy e sợ. Đối diện cửa vào là một chiếc ngai bằng đồng sáng bóng, phần tựa lưng được hình thành từ hai cánh chim Lạc, phần tay vịn là đuôi của chim.
Lúc này, Hùng Huy Vương đang ngồi trên ngai, thân vận khố màu vàng đất hoạ tiết đỏ, lưng đeo đai đồng, hai tay mang một cặp bao cổ tay có chạm khắc đàn chim Lạc phía trên, trước ngực là một tầm đồng bài chạm hình mặt trời, đầu đội mão lông chim ngũ sắc. Đứng bên dưới là các Lạc hầu, Lạc tướng đang khom người chờ lệnh. Tất cả đều mang khố và áo không cúc, để trần hai tay, Lạc hầu đầu đội mão lông nâu, Lạc tướng đầu vấn khăn mang thêm giáp đồng trước ngực.
Hùng Huy Vương ngồi phia trên lên tiếng:
- Các ngươi hãy báo cáo tình hình thiên tai trong khu vực mình cai quản cho ta.
- Bẩm Vua! Năm nay hạn nặng ở khắp đất nước. Lãnh thổ các tộc U, Mãn, Nam, Chiêm chủ yếu dựa vào đánh bắt hải sản mưu sinh, nên tình hình vẫn chưa quá tệ. Nguy cấp nhất chính là các tộc Đông, Hồ, Điền, Âu. Đặc biệt là tộc Âu, đất đai đã khô cằn nứt nẻ. Đến cây cỏ cũng không thể sống được. Các con sông trong lãnh thổ những tộc này cạn thấy đáy. Hiện nay đã xuất hiện tình trạng một số chiềng, chạ di chuyển sang những nơi còn nguồn nước. – Người vừa báo cáo lui lại chỗ cũ. Ông là Tuế Niên, một Lạc hầu lớn tuổi, chuyên quán xuyến, tổng hợp và báo cáo tin tức cho Vua.
Một Lạc hầu cao gầy bước ra tâu:
- Thưa Vua! Xin ngài ban lệnh mở kho lương thực ở các Bộ phân phát cho người dân. Nếu không người dân phải bỏ nhà, bỏ ruộng để tìm một con đường sinh tồn.
Lời vừa dứt, một Lạc tướng đã hô lớn:
- Vua của ta! Theo tin tức báo về, bên kia biên giới, nước Ân đã có hành động trù bị lương thảo và tập kết quân lính. Thần e rằng chúng sẽ sớm kéo quân đánh nước ta trong năm nay. Nếu phát hết lương thực dự trữ, một khi giặc đến, binh lính không đủ lương thực để chống chọi ngoại xâm. Xin Vua suy xét!
Người đang nói là thống lĩnh quân đội ở lãnh thổ của hai tộc Âu, Hồ - Lang Báo. Tuy đã hơn bốn mươi tuổi, nhưng ông lại là Lạc tướng dũng mãnh, thiện chiến nhất của nước Văn Lang. Dưới tay ông là đội quân Gió Lốc Đen tinh nhuệ, nổi danh với chiến thuật nhanh như gió, mạnh như bão. Đã bao lần quân Ân ý đồ xâm phạm biên cảnh, đều thất bại ngậm ngùi bởi đội quân này.
- Theo ý của Lang Báo, chẳng lẽ chúng ta đứng nhìn người dân rơi vào cảnh đói khổ mà không làm gì? Dân là gốc rễ của nước, không còn dân thì nước còn là nước sao? – Một Lạc Hầu vóc người hơi thấp lên tiếng.
- Ngài nói vậy là sai rồi, nước mất thì nhà tan. Nước không còn thì dân chúng cũng không còn, lúc đó chỉ còn nô lệ mà thôi. Vua của ta! Ta đồng ý với Lang Báo. Không thể để quân đội thiếu lương được! – Người vừa đáp lại là một Lạc tướng da đen nhẽm, giọng nói ồm ồm.
Các Lạc hầu, Lạc tướng liên tục đưa ra các lý lẽ tranh luận không ngớt. Hiện trường bắt đầu có chút loạn, bên nào cũng cho rằng giải pháp của mình là đúng.
Hùng Huy Vương giơ tay, ngăn cản bọn họ lại:
- Lang Báo nói đúng! Chuyện bảo vệ bờ cõi vô cùng quan trọng. Nếu giặc Ân vào lãnh thổ ta, con dân ta sẽ rơi vào cảnh làm nô lệ, lúc đó còn đáng sợ hơn cả cái chết. Nhưng cũng không thể bỏ mặc dân chúng trong cơn đói. Tuế Niên! Lệnh cho mở các kho lương ở các tộc Âu, Hồ, Đông, phân phát ba phần lương thực cho người dân. Đồng thời, truyền lệnh cho bốn tộc U, Mân, Nam, Chiêm chuyển một phần kho lương đến các vùng giao nhau với ba tộc Âu, Hồ, Đông.
Tuế Niên bước ra đáp:
- Thưa Vua! Các tộc ở ven biển có một cách xử lý hải sản dư thưa là phơi khô. Cách này tuy làm hải sản không còn tươi mới, nhưng lại lợi ở chỗ có thể bảo quản trong thời gian dài mà không bị hư hỏng. Có thể tăng thêm số lượng của hải sản khô trong phần lương thực cứu trợ cho các tộc kia.
- Chuẩn! Lang Báo, Du Sơn nghe lệnh! – Sau khi chuẩn cho Tuế Niên, Hùng Huy Vương gọi tên hai người khác.
Du Sơn là Lạc tướng da đen nhẽm trước đó đứng ra phản bác ý kiến phát hết kho lương. Tuy ông không quá cao, thậm chí còn thấp hơn một số Lạc hầu, nhưng cơ bắp trên người nổi lên cuồn cuộn mang lại cảm giác áp bách cho người đối diện. Quân đội dưới quyền vị này thuộc lãnh thổ tộc Đông, dù không nổi danh như Gió Lốc Đen, nhưng cũng có thể xem là một nhánh quân mạnh mẽ. Nghe Vua gọi, ông và Lang Báo bước ra hô lớn:
- Có thần!
- Sau khi trở về, tăng cường rèn luyện cho binh lính dưới trướng. Kế đó chiêu mộ thêm trai tráng từ tất cả bộ tộc, gấp rút huấn luyện chuẩn bị tinh thần chiến đấu bất cứ lúc nào. Đồng thời tăng gấp đôi do thám vùng biên giới. Bất kỳ hành động nào của nước Ân cũng phải báo về. – Hùng Huy Vương truyền lệnh cho cả hai.
- Đã rõ, thưa Vua! – Hai vị Lạc tướng đồng thanh.


Bạn đang đọc truyện trên Jtruyen.com